cây thông ba lá
Thông ba lá là cây gỗ lớn, thân thẳng đứng, cao 20¬30(-45)m, đường kính thân có thể tới 50¬70(-100)cm, vỏ dày, nứt thành những rãnh sâu, màu nâu đen. Cành nhỏ thường có màu vàng nhạt, màu phấn trắng. Lá hình kim, họp thành từng túm 3 lá (ít lúc có 2 hoặc 4 lá), dài (10-)12-21(-25)cm, mảnh, mềm, màu xanh sáng. tinh dầu thông
Thông ba lá có Nón đơn tính cùng gốc. Nón cái hình trứng, dài (4-)5-8(-10)cm, gần như không cuống hoặc có cuống rất ngắn (dài nhất chỉ khoảng 10 mm).
Hạt thông ba lá nhỏ có cánh mỏng, dài 1,5¬2,5cm.
Chúng tôi chuyên cung cấp, bán cây thông ba lá các loại để trồng cây công trình, khu sân vườn, khu công nghiệp, khu thành thị, các dự án cây xanh phong cảnh. Các cây thông ba lá kích cỡ nhỏ có đường kính gốc từ 4 cm đến 10 cm, các cây thông ba lá nhỡ có đường kính từ 10 cm đến 20 cm, hợp trồng đường phố, khu công nghiệp, khu thị thành. Các cây thông ba lá có kích cỡ lớn hơn từ 20 cm trở lên, thường hạp trồng khu thị thành, khu sân vườn có mức đầu tư lớn hơn, cần trồng để có cây xanh phong cảnh phủ xanh ngay. Hãy liên quan với chúng tôi để có thông báo chi tiết.
Các thông tin khác về thực vật của thông ba lá
Thông ba lá là loài có vùng phân bố rộng, nên rất nhiều chủng loại về các đặc điểm hình thái, sinh thái cũng như là năng suất và phẩm chất nhựa. Cũng nên chi mà trước đây nó đã bị miêu tả dưới 2 tên gọi khác nhau: Pinus insularis Endl. và Pinus khasya Royle ex Hook. f. Thực ra chúng chỉ là một loài độc nhất vô nhị – Pinus kesiya Royle ex Gordon. Việc tu chỉnh tên khoa học chính xác của loài thông ba lá mang tính khoa học, nên đã được hầu hết các nhà phân loại dấn. dầu thông
Thông ba lá là loài có nguồn gen quý, đa dạng ; do vậy, việc nghiên cứu tính đa dạng trong loài ở thông ba lá (Pinus kesiya) không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tại cao.
Phân bố thông ba lá
Thông ba lá ở Việt Nam:
Thông ba lá có ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang (Yên Minh, Hoàng Xu Phì, Xín Mần), Quảng Ninh, Yên Bái (Mù Cang Chải), Lai Châu (Than Uyên, Tủa Chùa), Sơn La (Mộc Châu), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
Thông ba lá trên Thế giới:
Cây thông ba lá phân bố ở miền Nam Trung Quốc, Lào, Bắc Thái Lan, Philippin, Myanmar và miền Đông Ấn Độ. Hiện thông ba lá đã được đưa trồng ở khắp các khu vực nhiệt đới trong vùng Đông Nam Á.
Đặc điểm sinh vật học thông ba lá
Cây thông ba lá ưa mát, ẩm và ưa sáng. Trong thiên nhiên chúng thường sinh trưởng ở các khu vực có độ cao từ 300m đến 2.700m, song hợp nhất là ở các độ cao từ 1.000 đến 1.500m.
Ở nước ta, rừng thông ba lá mọc thuần loại chỉ phân bốở một số khu vực có độ cao trên 1.000m tại Tây Nguyên (nhiều nhất là ở Lâm Đồng, tiếp đó là Gia Lai và Kon Tum). Trong vành đai 800-1.000m là các kiểu rừng hỗn giao của thông ba lá và thông nhựa (Pinus merkusii). Càng xuống thấp độ gặp của thông ba lá giảm dần, nhưng với thông nhựa lại tăng lên. Tại một số địa phương ở phía Bắc cũng có thể gặp thông ba lá mọc thuần loại hoặc hỗn giao với một số cây lá rông khác, nhưng với diện tích nhỏ và tạo thành loại hình rừng thưa lá kim. Thông ba lá hiệp với các khu vực có nhiệt độ nhàng nhàng năm khoảng 15-200C, tổng lượng mưa khoảng 2.000¬2.500mm và mùa khô ngắn. Chúng ưa đất nhiều mùn, tương đối ẩm, chua (pH 4,8-5,5), phong hoá trên đá mẹ granite, gnai, phiến thạch, phiến thạch mica, sa thạch…, thoát nước tốt, quang và được chiếu sáng đầy đủ. Thông ba lá không thích nghi với đất kiềm.
Tại Tây Nguyên, thông ba lá tái sinh tự nhiên khá tốt. Hạt thường phát tán vào mùa khô và nẩy mầm vào mùa mưa. Cây con ưa sáng và ưa ẩm. Trong thiên nhiên, thông ba lá tăng trưởng chiều cao khá nhanh ở thời đoạn trước 14-15 tuổi. Đến giai đoạn 18-25 năm tuổi, cây đạt chiều cao khá ổn định. Tăng trưởng đường kính trong thời đoạn trước 20 năm tuổi cũng cao nhất (đạt nhàng nhàng 0,9-1,1cm/năm). Thời kỳ cây đạt từ 21 đến 40 tuổi, tăng trưởng đường kính làng nhàng chỉ khoảng 0,52-0,61cm/năm. Trên 40 tuổi, cây tăng trưởng không đáng kể. Với điều kiện tự nhiên tại các tỉnh Tây Nguyên, thông ba lá thường có đường kính thân lớn hơn so với thông nhựa ở cùng lứa tuổi.
Cây thông ba lá ra nón vào tháng 4-5 và chín sau đó khoảng 2 năm.
Công dụng của thông ba lá
Thành phần hoá học của thông ba lá:
Nhựa thông ba lá là một hổ lốn phức tạp của nhiều hợp chất hữu cơ, trong đó cốt là tùng hương (còn được gọi là colophan, resin) với hàm lượng đổi thay từ 65-75(-85)% và tinh dầu (turpentine oil) với hàm lượng đổi thay trong khoảng (8,5-)18-20(-30,8)%.
Tùng hương là hợp chất rắn, trong suốt, ròn, dễ gãy, màu vàng, vàng nâu hay vàng sáng, vị đắng; không tan trong nước, nhưng lại hoà tan trong cồn, ether, chloroform, tinh dầu, chất béo và một phần trong benzen. Tùng hương là một hỗn tạp hữu cơ gồm cốt tử là các acid abietic, acid pimaric và một lượng nhỏ các chất trung tính. Chất lượng của tùng hương được đánh giá cốt dựa trên cơ sở các chỉ số acid và xà phòng hoá. Chỉ số acid và chỉ số xà phòng hoá càng cao thì sản phẩm được coi là có chất lượng càng tốt. Tùng hương đạt chất lượng cao lúc chỉ số acid đạt 160-170 và sản phẩm có màu vàng nâu nhạt, bóng.
Tinh dầu thông ba lá từ Tây Nguyên là hỗn hợp không màu, trong, nhẹ hơn nước, có mùi thơm hắc, với thành phần hoá học chính gồm α-pinen (chiếm khoảng từng 60%) và β¬pinen; các thành phần khác như ∆-3-caren, limonen, myrcen, longifolen… thường có hàm lượng nhỏ.
Công dụng của thông ba lá:
Tùng hương là nguồn nguyên liệu cần thiết đối với nhiều ngành công nghiệp như là chế biến cao su, sơn, sinh sản giấy, vật liệu cách điện, nhựa hàn, keo dán, chất tạo bọt cho xà phòng, công nghiệp in, vẽ các sản phẩm in batic, làm xi, dùng để bôi trơn cho nhiều loại nhạc cụ và chế biến cao dán chữa trị mụn nhọt…
Tinh dầu (turpentine oil) được dùng làm thuốc bôi, có tác dụng kích thích tại chỗ, lưu thông máu đối với bệnh viêm thấp khớp, cảm lạnh. Tinh dầu thông có tính khử trùng mạnh nên được dùng làm thuốc diệt khuẩn đường hô hấp (thuốc ho, thuốc xông họng). Tinh dầu thông cũng là nguồn vật liệu trong công nghiệp hoá mỹ phẩm, sản xuất thuốc trừ sâu thảo mộc, làm dung môi trong công nghiệp sơn, vecni và công nghiệp tuyển quặng.
Từ gốc thông già ta có thể xử lý, chưng cất lấy tinh dầu và hắc ín thảo mộc. Gỗ thông ba lá tuy không bền bằng gỗ thông nhựa, nhưng cũng được dùng khá phổ thông (đồ gỗ thường nhật, thùng đựng hàng, cột điện, đóng toa xe…), đặc biệt là trong công nghệ chế biến gỗ dán, bột giấy, sợi tổng hợp.
Kỹ thuật trồng thông ba lá
Trồng cây thông ba lá con
Thường ươm cây thông ba lá trong bầu. Cây con đem trồng ở miền Bắc lúc 4-6 tháng tuổi, miền Nam 6-9 tháng; cây cao 15-20cm, đường kính cổ rễ 0,3-0,4cm, lá xanh đậm, rễ phát triển đều, không bị sâu, bệnh. Vỏ bầu bằng PE thủng đáy, rộng 6-7cm, cao 11-12cm.
Ruột bầu tốt nhất là đất mặt của rừng thông ba lá, đất phải đập nhỏ, trộn với 1% supe lân. Nơi không có rừng thông ba lá thì lấy đất ở tầng mặt (0-30cm) trên có thực bì là cây tế guột (75%) + phân chuồng ủ với lân supe hoai mục (24%) + supe lân đập nhỏ (1%). Nên gieo hạt vào vụ thu dông hoặc mùa xuân. Hạt trước khi gieo phải xử lý, ngâm trong dung dịch thuốc tím nồng độ 0,1% (1g thuốc/lit nước) trong 30 phút, vớt ra để ráo nước, sau đó ngâm hạt trong nước 45 độ C (2 sôi + 3 lạnh) trong 6 giờ, vớt ra rửa sạch, để ráo nước, cho vào túi vải (mỗi túi khoảng 2kg hạt) ủ 3-5 ngày, hàng ngày rửa chua 1 lần bằng nước 30 độ C và thay túi cho đến lúc nứt nanh 30% số hạt thì đem gieo trực tiếp trong bầu (mỗi bầu 2 hạt) hay gieo vãi trên luống đất hoặc trong nhà thúc mầm với mật độ rất dày (1kg hạt/1-3m2) để tạo cây mầm. Cây mầm mọc cao 2-3 cm (bằng que diêm) đem cấy vào bầu.
chăm chỉ sóc, tưới đủ ẩm, định kỳ 15-20 ngày xới phá váng 1 lần. Cây xấu tưới thúc 2-3 lần, mỗi lần 0,1kg urê + 0,1kg kali + 0,2kg lân supe hoà với 60-80 lít nước tưới cho 10m2 bầu ươm, tưới phân xong phải tưới lại bằng nước lạnh để rửa lá. Ngừng chăm bón trước khi trồng 1-2 tháng.
Trồng rừng sản xuất thông ba lá
Thông ba lá đốn được trồng trên đồi núi trọc, đất trơ sỏi đá hoặc có trảng cỏ, cây bụi thấp. Nơi có thực bì cao, phát quang toàn diện, cần thiết có thể đốt; nếu thực bì thấp và thưa, không cần phát bỏ hoặc chỉ phát khu vực hố trồng.
Làm đất trồng theo phương thức trồng rừng cục bộ, hố đào trước khi trồng 1-2 tháng, kích thước 30x30x30cm hay 40x40x40cm.
Thời vụ trồng thông ba lá
Các tỉnh miền Bắc nên trồng thông ba lá vào vụ thu (tháng 8-10) hoặc xuân (tháng 2-4). Từ Nghệ An trở vào nên trồng vào vụ thu. Các tỉnh miền Nam trồng vào đầu mùa mưa.
Mật độ trồng thông ba lá: Nếu trồng lấy gỗ thì 2.500-3.000 cây/ha; trồng làm nguyên liệu giấy, bảo vệ đất 4.000 cây/ha.
chăm nom rừng trồng: Thường kéo dài 3-5 năm, mỗi năm 2-3 lần phát bỏ cây bụi, dây leo, làm cỏ, xới đất, vun gốc. Rừng trồng phải trải qua 1-2 mùa sinh trưởng tỷ lệ sống mới được giữ vững, bởi thế 2-3 năm đầu phải chăm chút đúng quy trình kỹ thuật và trồng dặm.
Thiết kế băng rộng 10-20m (băng trồng thông rộng 80-100m), trồng cây lá rộng để chống cháy rừng và hạn chế sâu bệnh phá hại.
Nuôi dưỡng rừng thông nhựa, tuỳ theo mục đích kinh dinh và các điều kiện cụ thể khác, số lần tỉa thưa và cường độ tỉa thưa có khác nhau. Riêng kinh dinh lấy gỗ, lấy nhựa thông, số lần tỉa thưa 2-3 lần, lần thứ nhất khi cây trồng được 6-7 tuổi, lần thứ 2 cách lần đầu 4-5 năm, cường độ tỉa thưa 30-50% số cây có trong lâm phần, số cây rút cuộc giữ lại 1.000-1.600 cây/ha. Rừng thông trồng với mục đích phòng hộ chống xói mòn do nước, làm nguyên liệu giấy nhìn nhung không tỉa, chỉ chặt vệ sinh.
khai thác, chế biến và bảo quản thông ba lá
Nhựa thông được chích theo 3 chế độ: chích dưỡng, chích rút và chích kiệt *. Tuỳ theo từng mục tiêu (lấy nhựa hay lấy gỗ) mà ta vận dụng các biện pháp vỡ hoang nhựa khác nhau đối với các dải rừng thông ba lá tự nhiên tại Tây Nguyên. Trường hợp lấy nhựa là chính thì có thể bắt đầu chích dưỡng từ lúc cây có đường kính thân ngang ngực khoảng 20-30cm đến lúc cây đạt đường kính thân 80-90cm. Chế độ chích rút được áp dụng trong thời kỳ cây đã chậm lớn, song vẫn còn khả năng cho nhiều nhựa. Các khu rừng thông đã đưa vào kế hoạch khai khẩn gỗ cần phải đưa vào chế độ chích kiệt trước khi chặt cây. Những rừng thông ba lá được trồng nhằm tạo vật liệu cho công nghệ giấy sợi, gỗ trụ mỏ thì mật độ trồng tương đối dày, thân cây cao, thẳng, đường kính thân nhỏ… và tuổi khai thác tương đối ngắn. Do đó trong các đợt tỉa thưa trung gian cũng như khai phá trắng, ta có thể sử dụng biện pháp chích kiệt để tận dụng hết nhựa.
Với thông ba lá ở Tây Nguyên ta có thể khẩn hoang nhựa quanh năm, nhưng cốt tử là các tháng mùa khô. Năng suất nhựa tăng lên rõ rệt trong thời kì chuyển tiếp giữa mùa mưa và mùa khô. Những rừng thông ba lá sinh trưởng tốt có thể bắt đầu cho phá hoang nhựa ở thời đoạn cây đạt 18-20 tuổi. Ở độ tuổi 25-40, thông ba lá cho năng suất nhựa cao nhất. Thời gian phá hoang nhựa có thể kéo dài đến khi cây 60-80 tuổi, chân tay tốc độ tăng trưởng đường kính thân hàng năm và khả năng cung cấp nhựa của từng cá thể. Cá biệt có cây trên 100 tuổi vẫn tiếp kiến tăng trưởng theo đường kính thân và năng suất tiết nhựa vẫn cao. Trong tự nhiên, mỗi cây cho trung bình 0,8-1,5(-3)kg nhựa/năm. Nếu có kỹ thuật kích hiệp lý thì bình quân một cây cho tới 3-4kg nhựa/năm. Với mật độ trung bình 60-80 cây/ha, năng suất nhựa của thông ba lá tại Tây Nguyên có thể đạt 90-160(-300)kg/ha năm.
Nhựa thông ba lá sau lúc thu về cần loại bỏ các tạp chất vô cơ, hữu cơ (bằng cách lọc qua mặt lưới hay mặt sàng) trước khi đưa chưng cất. khi nấu nhựa, nên cho thêm một lượng nước khăng khăng (bằng khoảng 20% khối lượng chung) để colophan không bị cháy. Dung tích nước và nhựa chỉ nên bằng hoặc ít hơn 60% thể tích của nồi. sử dụng thiết bị chưng cất bằng thép không gỉ hoặc bằng đồng là hiệp và colophan sẽ có màu vàng nâu nhạt sáng, bóng, đẹp đạt chất lượng sản phẩm mà thị trường ưa thích.
*-Chích dưỡng: Mỗi cây chỉ được chích 1 máng (với cây nhỏ) đến 2-3 máng (ở cây lớn ), nhưng phải cách xa nhau một số năm. Đây là chế độ phá hoang nhựa phối hợp nuôi dưỡng cây dài dài trong suốt thời kỳ cây tiếp tăng trưởng. Chích dưỡng thường kéo dài trong khoảng 30-40 năm.
– Chích rút: Mỗi cây có thể chích một số máng (tối đa là 7 máng) để tăng cường năng suất chích nhựa đồng thời vẫn đảm bảo cho cây duy trì được hoạt động sống thông thường. Chích rút thường được thực hành ở giai đoạn cây đã chậm lớn rõ rệt, song vẫn còn khả năng cho nhiều nhựa. Thời gian chích rút có thể kéo dài tới 8-10 năm tuỳ theo thể của rừng thông.
-Chích kiệt: Mỗi cây có thể mở nhiều máng với mức tối đa có thể được, đồng thời cũng bảo đảm cho cây có thể sống tiếp thêm 4¬5 năm cuối cùng. Chích kiệt được áp dụng để tận dụng hết nhựa còn lại trong cây. Chích kiệt thường được thực hiện đối với những rừng thông già, nhựa đã cạn và chuẩn bị tiến hành khai phá gỗ. Để tận dụng khai hoang nhựa, trước các đợt tỉa thưa ta nên áp dụng biện pháp chích kiệt đối với những cây sẽ chặt.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn thông ba lá
Thông ba lá là nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế và môi sinh rất cao, đặc biệt là ở Tây Nguyên và các khu vực núi cao phía Bắc. Tại Tây Nguyên, thông ba lá tái sinh khoẻ, tăng trưởng nhanh, ít bị sâu bệnh; là nguồn cung cấp nhựa và gỗ với năng suất khá cao.
Nhu cầu về nhựa thông ba lá và các sản phẩm từ nhựa thông (tùng hương và dầu thông) trên thị trường thế giới rất lớn, ngày càng tăng và cung không kịp cầu. Theo tính tình của một số nhà kinh tế, nhu cầu về tinh dầu thông trong công nghệ hoá mỹ phẩm tăng bình quân hàng năm khoảng 3-5%, trong công nghệ chế tác keo và các sản phẩm kết dính cũng tăng lên hàng năm khoảng 2-3%.
Ở nước ta, để sản xuất 1 tấn giấy thường cần tới 10kg tùng hương. dự định đến 2010 nếu muốn sinh sản 2,5 triệu tấn giấy cũng cần tới 25.000 tấn tùng hương (lớn gấp 7-8 lần tổng công suất của các nhà máy thông hiện có ở nước ta).
hiện, diện tích rừng thông ba lá trong thiên nhiên đã bị thu hẹp, bị khẩn hoang bất hợp lý. Tình hình trên đặt ra trước chúng ta nhiệm vụ phải bảo vệ các khu rừng thông ba lá thiên nhiên sẵn có, đồng thời với việc mở rộng diện tích trồng mới và nghiên cứu vỡ hoang, chế biến nhựa đạt hiệu quả kinh tế, từng lớp cao. Nhựa thông ba lá là nguồn hàng LSNG có giá trị và có nhu câu ngày càng lớn.
|