Đàm là sản vật bệnh lý của tân dịch. Đàm gặp trong nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau: thường gặp trong bệnh lý bộ máy hô hấp do chất xuất tiết của niêm mạc đường hô hấp như ho suyễn có đàm, ngực đầy tức khó thở, nôn, buồn nôn, đau đầu chóng mặt, bệnh tràng nhạc ( loa lịch hạch đàm) và đàm cũng là bệnh lý của các chứng trúng phong, kinh giản, kinh quyết.
Nguyên nhân sinh đàm có thể do nội thương tạng phủ, tạng phủ chức năng rối loạn ( chủ yếu là ba tạng tỳ, phế, thận) và cũng có thể do ngoại cảm lục dâm ( phong hàn thấp táo hỏa) cho nên tính chất đàm có khác nhau: thấp đàm, táo đàm, nhiệt đàm, hàn đàm, phong đàm.
Cho nên để chữa chứng đàm, Đông dược có những loại thuốc khác nhau như táo thấp hàn đàm, nhuận táo hóa đàm, thanh nhiệt hóa đàm, ôn hóa hàn đàm, trừ phong hóa đàm.
1. TÁO THẤP HÓA ĐÀM : là bài thuốc trị chứng đàm thấp, thường dùng bài: Nhị trần thang.
2. KHU HÀN HÓA ĐÀM: dùng trị các chứng hàn đàm do tỳ thận dương hư phế hàn tích tụ nhiều đàm. Thường dùng các loại thuốc ôn dương trừ hàn hóa đàm như Can khương, Bạch truật, Tế tân, Cam thảo.
3. THANH NHIỆT HÓA ĐÀM: là những bài thuốc dùng chữa các hội chứng bệnh lý nhiệt đàm biểu hiện lâm sàng là: ho, đàm vàng, khó khạc kèm theo có sốt hoặc không rêu lưỡi vàng, mạh sác. Thường gồm các vị thuốc đắng hàn thanh nhiệt hợp với thuốc hóa đàm như Hoàng cầm, Hoàng liên, Huyền sâm, Qua lâu, Bối mẫu. Bài thuốc thường dùng là: Bối mẫu qua lâu tán, Tiểu hãm hung thang.
4. PHONG ĐÀM: nguyên nhân của phong đàm có thể do ngoại cảm phong tà, phế khí không thông, đàm ứ trệ tại phế, thường ho nhiều đàm. Nếu do nội thương, phong đàm là do chức năng tỳ vị rối loạn, tỳ thấp sinh đàm, đờm trọc nhiễu động, nội phong sinh đau đầu chóng mặt. Bài thuốc trị ngoại phong thường gồm các vị thuốc tuyên tán ngoại cảm kiêm hóa đờm như: Cát cánh, Kinh giới, Tô tử, Tử uyển, thường dùng là bài thuốc Chỉ thấu tán. Trị nội sinh phong đàm thường dùng các vị thuốc tức phong hóa đàm như Thiên ma, Bán hạ thường dùng là bài Bán hạ Bạch truật thiên ma thang.